http://vanthoviet.com/news/n/499/4466/dang-ha-my-nguoi-dan-ba-gieo-que-goi-pho-nau.html?l=vn
Đặng Hà Mi- người Đàn Bà gieo quẻ gọi Phố Nâu
HÀ NỘI TRONG EM
Đặng Hà My
Hà Nội trong em vẫn trong veo đến lạ
Viên ngọc trời vẫn lóng lánh bước chân
Dù rất hiếm tiếng sâm cầm thuở nọ
Trong thẳm sâu em vẫn rước thơ về
Người Hà Nội nhữngđêm nằm nghiêng thở
Có tiếng nói lạ
Những tiếng cười lạ
Và biết bao điều ngọng nghịu
Lạ…
Người Hà Nội nhữngđêm quặn thắt
Thấy Tháp Rùa quăn
Hồ Tây cong
Dâm Đàm mù sương vạn cõi
Đóa hoa trời em ghim lên tóc rối
Rối phố
Rối phường
Rối cả chiêm bao
Bên dậu thưa
Có đàn kiến bậu đầy chân hăng mùi hắc ngải
Tiểu Mõ lồng ngồng hút cuống vú đêm
Người "Hà Nội" tưng bừng bên giấy mới
Bút nghiên nào
Viết nổi một chữThanh
Bột mực nào Lịch lãm múa nét hoa
Trên thân Rồng ngàn năm chầu chín Phượng?
Sen tím bầm trời
Cứ kiêu mùa bạch tạng
Có cánh nào đích thực gọi là Thơ?
Trời Hà Nội oằn những giấc mơ
Im lìm che miệng cười trong góc khuất
Ừ…
Chân bước đi
Nổi chìm con đường 37
Mùa heo may cắn nát cánh lộc vừng
Mùa heo may cuốn lên khói hương chẳng nhớ gì phía Phái
Lên đồng 36 hồn quay quắt
Xin một lần gieo quẻ
Gọi về
Nhập lại
Phố Cổ
Nâu
Đặng Hà Mi- người Đàn Bà gieo quẻ gọi Phố Nâu
Hà Nội- mảnh đất để lại dấu ấn khó phai cho bất kì ai chôn nhau cắt rốn ở đấy hay chỉ một lần đặt chân tới, và cả những ai chưa từng chạm tay vào dòng Hồ Tây thơ mộng… Nhưng sâu sắc, ngọt ngào, mê đắm nhất vẫn là nỗi nhớ của những người con được sinh ra ở Hà Nội nhưng phải đi xa. Cái nhớ vẹn tròn, cái nhớ nồng nàn ấy được Đặng Hà Mi- một người con gắn tuổi thơ đầu đời với tiếng Sâm Cầm, với hương sữa nồng, với Hồ Tây Tháp Rùa… thổi vào bài Hà nội trong em một cách tình nhất, một cách chân chất, nồng hậu nhất.
Có không ít người con đất Việt dành bút lực, tâm hồn viết về Hà Nội. Ai cũng say đắm, nồng nàn như Hà Nội thân thiện, hiền hòa. Đó là cái da diết rất riêng của Bùi Sim Sim:
Đêm Hà Nội thơm nghẹn lòng hoa sữa
Ngôi sao em ngân ngấn khóc chân trời
….
Hà Nội bồng bềnh trôi theo heo may
Ánh trăng nhắc về một thời mê đắm
(Đêm Hà Nội nhớ)
Đối với nàng thơ Sim Sim, Hà Nội “nghẹn lòng” người bởi hoa sữa trắng ngần, tinh khôi, thoang thoảng trong gió heo may, với trăng sao… quyện bền với nỗi nhớ người yêu. Còn Trần Mạnh Hảo lại biến tình yêu thủ đô trở thành hành động, thi sĩ muốn một lần táo bạo, mạnh tàn để “Tôi muốn mang hồ Gươm đi trú đông ...” để chẳng bao giờ phải nhớ,phải trằn trọc. băn khoăn:
Tôi muốn mang hồ Gươm đi trú đông
Nhưng làm sao mang nổi được sông Hồng...
Làm sao gói nổi heo may rét...
Thôi đành để hồ cho gió bấc trông....
(Tôi muốn mang Hồ Gươm đi)
Nhưng rồi nhà thơ nhận ra, không thể mang Hà Nội- Hồ Gươm đi bởi chẳng nơi đâu đủ sức “dung chứa” cái đẹp tuyệt diệu ấy!
Hay nhưtrong Có phải em mùa thu Hà Nội của Tô Như Châu thì Hà Nội rất riêng bởi được phả vào đó cái thu nồng nàn với lá vàng và tình yêu say đắm người em gái Hà Thành:
Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn.
Có phải em là mùa thu Hà Nội.
Ngày sang thu anh lót lá em nằm,
Bên trời xa sương gió bay
(Có phải em mùa thu Hà Nội)
Để rồi sau đó, những vẫn thơ nồng ấm heo may ấy đã được nhạc sĩ Trần Quang Lập phổ nhạc làm cho thi từ hai lần thăng hoa.
Người viết về Hà Nội nhiều tới độ chỉcần nhắc tới đấy thôi ta đã cảm được rằng ai ai cũng có thể đặt bút viết về mảnhđất thân thương, trìu mến này. Nhưng viết hay về Thủ Đô thì vẫn hiếm lắm. Và đọc Hà Nội trong em của Đặng Hà Mi, tôi xin được xếp bài thơ nhỏ ấy vào những trang thơ viết về Hà Nội đẹp, nồng nàn, say đắm nhất!
Được ưu ái quá chăng khi “Hà Nội trong em” được sáng tác bởi một thi sĩ sinh ra và lớn lên ở Thủ Đô, lại cộng hưởng thêm cái nhớ nhung của kẻ đi xa xứ, Đặng Hà Mi đã làm ta bồi hồi nhớ, bồi hồi xúc động nhiều đến vậy? Tựa đềbài thơ gom hết nội dung thơ vào trong đó. Đấy là cái nhìn về Hà Nội, nỗi nhớ vềHà Nội, những ấn tượng rất riêng về Hà Nội của nhân vật trữ tình “em”. Chỉ với đại từ “em” thôi, ta đã cảm thấy cái nhẹ nhàng của người con gái Hà Thành. Hà Nội trong cô gái thanh lịch hiện lên đẹp lạ:
Hà Nội trong em vẫn trong veo đến lạ
Viên ngọc trời vẫn lóng lánh bước chân
Dù rất hiếm tiếng sâm cầm thuở nọ
Trong thẳm sâu em vẫn rước thơ về
Dường như tất cả những nét thanh tú, nồng nàn của hoa sữa, hồ Gươm, ba sáu phố phường đều được nàng thơ gom vào chữ “trong veo” hết thảy. Câu thơ đầu là lời khẳng định cái vẹn tròn, long lanh những ấn tượng, kỉ niệm về Hà Nội của “em”. “Trong veo” thể hiện độ tinh túy, nhẹ nhàng mà vút cao, lắng đọng nhưng lan tỏa như “viên ngọc trời” vậy. Nhà thơ cũng thấy ngạc nhiên, cũng mắt tròn “đến lạ” vì cái “trong veo” kia. Những câu thơ nhẹ nhàng, nhưng đẹp cả về ngôn từ lẫn nội dung. Hai tính từ “trong veo”, “lấp lánh” ngay ở hai câu thơ đầu đã lột tả hết bản chất lung linh, thanh thoát của thành phố ba sáu phố phường ấy. Vì vậy, chẳng cần có“tiếng sâm cầm” thưở xưa kia vẫn khiến “em” nhớ, yêu và “rước thơ về”. Nhắc đến Hà Nội, ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay tới bầy sâm cầm chao liệng trên nền trời bởi nó đã bay vút vào bao nhiêu ca khúc, tứ thơ:
“Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi
Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời”
(Nhớmùa thu Hà Nội- Trịnh Công Sơn)
Nhưng chỉ với “em”thôi, thì chẳng cần đến “sâm cầm” vẫn có thể nghênh rước nàng thơ về. Thi sĩtrân quý lắm Hà Nội, nên khi làm thơ về mảnh đất này, nàng liên tưởng đến hànhđộng “rước” như đang nghênh đón một thứ quý giá, danh gia trở về. Nỗi lòng ấy cũng chẳng khác mấy với cái nhớ nhà của Huy Cận trong Tràng Giang “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Chỉ bốn câu thơ mở đầu nhẹ nhàng Đặng Hà Mi đã nói lên được tình yêu Hà Nội trong “thẳm sâu” trái tim mình. Nơi “thẳm sâu” nhất là nơi khó ai khuấy động, thay đổi nhất! Một Hà Nội thinh lặng nhưng vẫn cuộn xoáy những dư ba, lấp lánh, trong veo đến lạ thường!
Tiếp nối không gian một Hà Nội “trong veo”, nhà thơ lần lượt khắc họa những nét đẹp cụ thể vềcon người, về cảnh sắc.
Người Hà Nội nhữngđêm nằm nghiêng thở
Có tiếng nói lạ
Những tiếng cười lạ
Và biết bao điều ngọng nghịu
Lạ…
Người Hà Nội nhữngđêm quặn thắt
Thấy Tháp Rùa quăn
Hồ Tây cong
Dâm Đàm mù sương vạn cõi
Người Hà Nội được tác giả nhìn qua không gian đêm, khi mà sự hiện tồn của ánh sáng trở nên nhỏ nhất, cái nhạt nhòa, mơ ảo được đẩy lên cao nhất. Cái dịu dàng của những con người Thủ Đô nghe sao đẹp đến lạ. Đến dáng nằm cũng chênh chao, mê đắm “ đêm nằm nghiêng thở” thi vi lắm, nhẹ nhàng lắm nhưng cũng quẫy đạp vô cùng. Cái dáng nghiêng che nón lá của con gái Huế có y tựa như cái “nghiêng nằm thở” này không? Sự sống vẫn hiện tồn mãnh liệt qua cái dáng nghiêng nghiêng ấy, để rồi giữa đêm thanh mịch kia là vạn điều trăn trở, cháy khát:
Có tiếng nói lạ
Những tiếng cười lạ
Và biết bao điều ngọng nghịu
Lạ…
Tác giả phác họa cái khác, cái đặc biệt của đêm Hà Nội, của người Hà Nội qua từ “lạ”. Đó là nụcười, tiếng nói và cả những cái ngọng nghịu, ủ ấp không thốt nên lời giữa đêm!Đúng là đêm về kéo theo biết bao nhiêu “ngọng nghịu - lạ”. Đọc bấy nhiêu thôi, chỉ là những câu thơ điểm xuyết về sức sống, những cái “động” giữa đêm tĩnh của người Hà Nội cũng đủ làm lòng ta xao xuyến- cái xao xuyến rất tình. Dường nhưtác giả sợ rằng bấy nhiêu cái nói, cái cười, cái ngọng nghịu vẫn chưa đủ làm cho đêm Hà Nội có nét riêng nên Đặng Hà Mi phải cố “gài” vào mỗi dòng thơ tính từ “lạ” thì mới đủ sức cộng chứa hết thảy những quằn thức kia nổi. Chữ “lạ” ởcuối được nàng thơ ưu ái tách riêng ra thành một dòng biệt lập đã phần nào chứng tỏ điều đó, cộng thêm dấu ba chấm khiến cho cái “lạ” kia vẫn chưa dừng lại ở đó, vẫn tiếp diễn, kéo dài tràn ngập sang bất cứ đâu mà bút lực thi sĩ chạm tới…
Người Hà Nội nhữngđêm quặn thắt
Thấy Tháp Rùa quăn
Hồ Tây cong
Dâm Đàm mù sương vạn cõi
Nếu như ở những câu trên, Hà Nội hiện lên qua dáng “nghiêng thở” rất tình, nhẹ nhàng thì bốn câu thơ tiếp đan cài cái trở trăn, quặn thắt. Có lẽ nỗi nhớ sẽ chẳng tròn, ấn tượng sẽ chẳng đậm nét, câu thơ sẽ chòng chành nếu nhưchỉ có nhẹ nhàng, hiền hòa không thôi… Đặng Hà Mi đã gom tất cả cái thanh tú, cái chao nghiêng, cái khác lạ và cái “quặn thắt” vào đêm Hà Nội, thế nên đêm Thủ Đô mới đủ đầy đến thế. Những Tháp Rùa, Hồ Tây, Dâm Đàm được chiếu rọi bằng ánh mắt rất khác. Tháp Rùa vẫn là Tháp Rùa- niềm tự hào của đất nước được nàng thơ miêu tả bằng tính từ “quăn”, Hồ Tây liễu rũ nay lại “cong” đến lạ lùng, và cả Dâm Đàm nay sương mù bao vạn cõi… Ba nét riêng nhất của Hà Nội được nhà thơvẽ lại và gom chung thành ba câu thơ liền kề, tạo cho sức tưởng tượng của độc giả có dịp hiển hiện. Dường như cái “quăn- cong- mù sương vạn cõi” hiện lên trước mắt ta không chỉ là “Tháp Rùa- Hồ Tây- Dâm Đàm” nữa mà nó trở thành một nàng thiếu nữ đang mải mê trước tạo hóa đẹp xinh. Nét “cong” đặc tả được vẻ đep của người phụ nữ. Có cả nét đẹp cong nghiêng, và cả nét đẹp mơ hồ, lung linh, rất mộng trong bấy nhiêu câu thơ… Và không cần phải ngóng chờ lâu, thi sĩ đã nhẹ nhàng dẫn người đọc đến với hình ảnh người đàn bà “tóc rối” đang đắm mình vào sắc “hoa trời” khiến rối bời tất thảy sự vật xung quanh nàng.
Đóa hoa trời em ghim lên tóc rối
Rối phố
Rối phường
Rối cả chiêm bao
Giữa không gian mộng mơ ấy, “đóa hoa” trở nên mơ hồ, lạ lẫm. Tác giả không đưa ra một loài hoa có tên nào cụ thể, chúng ta có quyền thắc mắc tại sao không là hồng, là huệ, là lan… mà lại chung đến thế “hoa trời”. Hay chỉ có “hoa trời”mới đủ sức thẩm chứa cái rối bời tóc, rối bời phố, rối bời phường và chiêm bao rối bời ấy! Hành động “ghim” kia mạnh bạo quá, sao không là cài, gài, đan… Có lẽ cũng chỉ có “ghim” mới đủ sức bền chặt, vương mắc lên tóc rối của em gái Hà Nội trong thơ Đặng Hà Mi. Đọc bốn câu thơ ấy, lòng ta cũng rối bời theo giấc chiêm bao… Tất thảy đang đồng điệu, hùa theo cánh hoa trời mà dăng mắc khắp phố, khắp phường và neo đậu ngay giấc chiêm bao. Cơn khó ngủ ấy để rồi lại “đêm nằm nghiêng thở” lần nữa. Bốn dòng thơ là bốn lần từ “rối” lặp lại, đọc lên nghe sao lòng ta cũng “rối”, cũng loạn nhịp, chênh chao theo. Cái hay, cái dư ba làở đó?
Giấc chiêm bao chưa kịp bén chân thìđột nhiên Đặng Hà Mi quay quắt đòi phải có:
Bên dậu thưa
Có đàn kiến bậu đầy chân hăng mùi hắc ngải
Tiểu Mõ lồng ngồng hút cuống vú đêm
Ừ thì đêm mà, có ngoa ngoắt gì mà lại không có nổi một bờ dậu thưa, một đàn kiến, và cả Tiểu Mõ nữa… Ba câu thơ rất gợi, rất tình khiến người đọc phải suy ngẫm, trăn trở. Sự thật dễ dàng cho ta kiếm tìm cái cảnh “chết người” ấy lắm chứ? Nhưng ở đây, thi sĩ không muốn khoanh tròn trong “mùi hắc ngải” ấy, mà xa hơn… là chút tình đêm Hà Nội, đêm mê đắm của người, của vạn vật! Hình ảnh “hút cuống vú đêm” hiện lên không phải bằng thi từ nữa mà bằng ngồn ngộn nét thực, rất thực. Nó cũng gần với cách nói của chị ở những bài thơ khác:
Huyền mị đêm mắt tím
Thăm thẳm Cổ Ngư gió tràn chớp khóe môi đầy
…
Cho em được hé cánh sen chiều trong trắng
Để ngọc ngà non nuốt mãi Tràng An
Vẫn là chất nữ đậm sâu trong từng câu, từng chữ, từng hình ảnh thơ. Cái ngọt ngào của cơ thể người đàn bà đan cài vào nét duyên dáng của thiên nhiên, tạo hóa khiến cho thi tứ vút cao, mà lại gợi sức tưởng tượng lạ kì. Thế nên đọc Hà Nội trong em của chị chúng ta không những thấy được nét đẹp của Hồ Tây, Dâm Đàm… mà còn thấy sức uyển chuyển, mặn mòi, nồng nàn của những cơ thể sống giữa Hà Nội đẹp xinh ấy. Họ từng ngày từng giờ vẫn sống, vẫn “nghiêng thở”, vẫn quặn thắt”, vẫn“hút cuống vú đêm”… một cách nồng nhiệt, mê đắm nhất. Từ “cuống” thực tới mức chúng ta có thể phác họa lên trang giấy. Thế mới biết, chỉ có con người mới gom toàn vẻ đẹp của tạo hóa, chính họ bằng năng lượng sống đủ đầy mới gom nhặt tất thảy hoa mĩ trời đất vào mình. Con người và thiên nhiên Hà Nội trong mắt ngườiđàn bà làm thơ ấy là một, bền chặt… ngay cả những phút giây người nhất, tình nhất!
Và có lẽ, chưa đủ nếu nhắc đến người Hà Nội mà không đả động đến những trai thanh gái lịch- một phần tất yếu của mảnh đất kinh kì này:
Người "Hà Nội" tưng bừng bên giấy mới
Bút nghiên nào
Viết nổi một chữThanh
Bột mực nào Lịch lãm múa nét hoa
Trên thân Rồng ngàn năm chầu chín Phượng?
Nétđẹp ngàn năm văn hiến gắn với nghiên mực, thầy đồ, xin chữ… vẫn còn đó, chưa hềmai một. Để nàng thơ có dịp tung bút. Đặng Hà Mi miêu tả đã khéo, thì nay khen lại cực kì khéo. Cái Thanh Lịch kia dẫu ngàn vạn bút nghiên, giấy gió vẫn không thể nào viết “nổi” cho hết, cho kì sạch sành sanh. Thế mới thấu tận nét Thanh Lịch của trai gái Hà Thành lớn lao, to tát đến nhường nào. Chỉ có thể mơn trớn bên ngoài thế thôi, còn muốn viết “nổi” cho kì hết thì khó lắm, nhiều lắm, mênh mông lắm. Câu thơ cuối khổ bao gọn tất thảy nền văn hiến lâu đời ấy “ Trên thân Rồng ngàn năm chầu chin Phượng?” hào hung, kĩ vĩ.
Sen tím bầm trời
Cứ kiêu mùa bạch tạng
Có cánh nào đích thực gọi là Thơ?
Trời Hà Nội oằn những giấc mơ
Im lìm che miệng cười trong góc khuất
Hình ảnh đóa Sen giữa Hà Nội đẹp hơn, thơ hơn trong Hà Nội trong em. Sắc hồng của loài hoa thân thuộc ấy đậm tới độtác giả nâng tới mực “tím bầm trời”. Dường như ở đây, cái gì cũng khác, cũng riêng, hoa Sen cũng tím chẳng thấy hồng như thường. Nét “kiêu” sa của đóa hoa trước màu “bạch tạng” của mùa cũng chính là sức quyến rũ của Hà Thành. Gi ữa mùa nhạt màu ấy, sen kiêu sa khoe sắc, nên sắc hoa mới tím đến nhường ấy! Câu hỏi bỏ lửng quay quắt tìm câu trả lời, mà sao lặng thinh không gian quá. Để rồi“im lìm che miệng cười trong góc khuất”… Nét duyên của “ai đó” làm ta nhớ hoài khôn nguôi. Kín đáo, nhẹ nhàng và e lệ, câu thơ cuối toát lên vẻ đẹp rất riêng của phố Hà Nội, gái Hà Nội…Ba sáu phố phường nối nhau tít tắp, chỉ có những mái nhà, góc phố uốn quanh là tồn tại, hiện hữu mãi với thời gian, không gian. Nó dẫn bước bao nhiêu lượt người đi, người đứng ngóng, người ở lại… để sau đó neo thành kỉ niệm:
Ừ…
Chân bước đi
Nổi chìm con đường 37
Mùa heo may cắn nát cánh lộc vừng
Mùa heo may cuốn lên khói hương chẳng nhớ gì phía Phái
Mùa heo may báo hiệu thu sang, với lá vàng “lót chỗ em nằm” và nó cũng nhẫn tâm “cắn nát cánh lộc vừng”, rồi cuộn khói để phố Bùi Xuân Phái ngồn ngộn, ẩn chìm trong khói hương. Mơ màng và nên thơlắm mùa thu Hà Nội. Phố Phái con phố thứ 37 ấy vẫn nằm trên những khung vải của họa sĩ Bùi Xuân Phái nó không dựng trên mặt đất mà dựng từ hồn của 36 phố phường. Giờ đây nó lại được Đặng Hà Mi đưa vào thơ với vẻ bang lãng, ẩn hiện, mơ màng khó tả
Lên đồng 36 hồn quay quắt
Xin một lần gieo quẻ
Gọi về
Nhập lại
Phố Cổ
Nâu…
Những câu thơ cuối được tác giả bẻ ra, ngắt ra thành những câu thơ ngắn hai từ, một từ… Thể hiện niềm mong mỏi lưu giữnhững nét di sản rất xưa, rất Hà Nội. Phố cổ hai năm, ba mươi năm có còn nữa hay không? Tiếng gọi “nhập lại” “phố cổ- nâu” ấy da diết khôn nguôi. Đó cũng là tiếng lòng của biết bao người con Hà Nội- sợ một ngày ba sáu phố phường chỉ còn lại trong tranh- “chẳng nhớ gì phía Phái” là thế!
Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do, không hạn định số câu trong mười khổ, không đồng đều số chữ ở mỗi câu khiến cho Hà Nội trong em cứ tự nhiên dội vào, chảy vào và xoáy vào lòng người đọc. Những dấu ba chấm, chấm hỏi tạo nên sức lay động tới độc giả. Bắt chúng ta phải nghĩsuy, ngẫm bàn mãi, bắt đầu óc, tâm hồn trở trăn theo từng dấu ấn về Hà Nội của nàng thơ Đặng Hà Mi. Bài thơ là tiếng lòng của một người con xứ kinh kì đang khắc khoải trước nét đẹp rất riêng của quê mẹ. Muốn lưu giữ, bảo tồn mãi mãi. Khổ thơ cuối là niềm mong mỏi rất nhân văn của nhà thơ trước sức bào mòn của thời gian, lòng người với những giá trị vật chất, tinh thần của phố cổ Hà Nội.
Đọc hết bài thơ, tâm hồn ta nhưu lắng lại để bắt đầu hoài niệm, nhớ nhung … mảnhđất Hà Nội đẹp mê hồn, thanh lịch mê hồn, da diết đến mê hồn. Thầm cảm ơn tác giả đã “gieo quẻ gọi Phố Nâu” về bên tan gay giữa nhộn nhịp xe cộ, bon chen vật chất, xô lấn cuộc đời. Đặng Hà Mi đã lưu giữ những nét đẹp tinh khôi, văn hiến nhất của Hà Nội vào “thẳm sâu” trong “em”, trong ta, trong tất cả mọi người!
Đặng Hà Mi- người Đàn Bà gieo quẻ gọi Phố Nâu
Đăng ngày: 11:36 16-02-2012
Thư mục: Tổng hợp
HÀ NỘI TRONG EM
Đặng Hà My
Hà Nội trong em vẫn trong veo đến lạ
Viên ngọc trời vẫn lóng lánh bước chân
Dù rất hiếm tiếng sâm cầm thuở nọ
Trong thẳm sâu em vẫn rước thơ về
Người Hà Nội nhữngđêm nằm nghiêng thở
Có tiếng nói lạ
Những tiếng cười lạ
Và biết bao điều ngọng nghịu
Lạ…
Người Hà Nội nhữngđêm quặn thắt
Thấy Tháp Rùa quăn
Hồ Tây cong
Dâm Đàm mù sương vạn cõi
Đóa hoa trời em ghim lên tóc rối
Rối phố
Rối phường
Rối cả chiêm bao
Bên dậu thưa
Có đàn kiến bậu đầy chân hăng mùi hắc ngải
Tiểu Mõ lồng ngồng hút cuống vú đêm
Người "Hà Nội" tưng bừng bên giấy mới
Bút nghiên nào
Viết nổi một chữThanh
Bột mực nào Lịch lãm múa nét hoa
Trên thân Rồng ngàn năm chầu chín Phượng?
Sen tím bầm trời
Cứ kiêu mùa bạch tạng
Có cánh nào đích thực gọi là Thơ?
Trời Hà Nội oằn những giấc mơ
Im lìm che miệng cười trong góc khuất
Ừ…
Chân bước đi
Nổi chìm con đường 37
Mùa heo may cắn nát cánh lộc vừng
Mùa heo may cuốn lên khói hương chẳng nhớ gì phía Phái
Lên đồng 36 hồn quay quắt
Xin một lần gieo quẻ
Gọi về
Nhập lại
Phố Cổ
Nâu
Đặng Hà Mi- người Đàn Bà gieo quẻ gọi Phố Nâu
Hà Nội- mảnh đất để lại dấu ấn khó phai cho bất kì ai chôn nhau cắt rốn ở đấy hay chỉ một lần đặt chân tới, và cả những ai chưa từng chạm tay vào dòng Hồ Tây thơ mộng… Nhưng sâu sắc, ngọt ngào, mê đắm nhất vẫn là nỗi nhớ của những người con được sinh ra ở Hà Nội nhưng phải đi xa. Cái nhớ vẹn tròn, cái nhớ nồng nàn ấy được Đặng Hà Mi- một người con gắn tuổi thơ đầu đời với tiếng Sâm Cầm, với hương sữa nồng, với Hồ Tây Tháp Rùa… thổi vào bài Hà nội trong em một cách tình nhất, một cách chân chất, nồng hậu nhất.
Có không ít người con đất Việt dành bút lực, tâm hồn viết về Hà Nội. Ai cũng say đắm, nồng nàn như Hà Nội thân thiện, hiền hòa. Đó là cái da diết rất riêng của Bùi Sim Sim:
Đêm Hà Nội thơm nghẹn lòng hoa sữa
Ngôi sao em ngân ngấn khóc chân trời
….
Hà Nội bồng bềnh trôi theo heo may
Ánh trăng nhắc về một thời mê đắm
(Đêm Hà Nội nhớ)
Đối với nàng thơ Sim Sim, Hà Nội “nghẹn lòng” người bởi hoa sữa trắng ngần, tinh khôi, thoang thoảng trong gió heo may, với trăng sao… quyện bền với nỗi nhớ người yêu. Còn Trần Mạnh Hảo lại biến tình yêu thủ đô trở thành hành động, thi sĩ muốn một lần táo bạo, mạnh tàn để “Tôi muốn mang hồ Gươm đi trú đông ...” để chẳng bao giờ phải nhớ,phải trằn trọc. băn khoăn:
Tôi muốn mang hồ Gươm đi trú đông
Nhưng làm sao mang nổi được sông Hồng...
Làm sao gói nổi heo may rét...
Thôi đành để hồ cho gió bấc trông....
(Tôi muốn mang Hồ Gươm đi)
Nhưng rồi nhà thơ nhận ra, không thể mang Hà Nội- Hồ Gươm đi bởi chẳng nơi đâu đủ sức “dung chứa” cái đẹp tuyệt diệu ấy!
Hay nhưtrong Có phải em mùa thu Hà Nội của Tô Như Châu thì Hà Nội rất riêng bởi được phả vào đó cái thu nồng nàn với lá vàng và tình yêu say đắm người em gái Hà Thành:
Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn.
Có phải em là mùa thu Hà Nội.
Ngày sang thu anh lót lá em nằm,
Bên trời xa sương gió bay
(Có phải em mùa thu Hà Nội)
Để rồi sau đó, những vẫn thơ nồng ấm heo may ấy đã được nhạc sĩ Trần Quang Lập phổ nhạc làm cho thi từ hai lần thăng hoa.
Người viết về Hà Nội nhiều tới độ chỉcần nhắc tới đấy thôi ta đã cảm được rằng ai ai cũng có thể đặt bút viết về mảnhđất thân thương, trìu mến này. Nhưng viết hay về Thủ Đô thì vẫn hiếm lắm. Và đọc Hà Nội trong em của Đặng Hà Mi, tôi xin được xếp bài thơ nhỏ ấy vào những trang thơ viết về Hà Nội đẹp, nồng nàn, say đắm nhất!
Được ưu ái quá chăng khi “Hà Nội trong em” được sáng tác bởi một thi sĩ sinh ra và lớn lên ở Thủ Đô, lại cộng hưởng thêm cái nhớ nhung của kẻ đi xa xứ, Đặng Hà Mi đã làm ta bồi hồi nhớ, bồi hồi xúc động nhiều đến vậy? Tựa đềbài thơ gom hết nội dung thơ vào trong đó. Đấy là cái nhìn về Hà Nội, nỗi nhớ vềHà Nội, những ấn tượng rất riêng về Hà Nội của nhân vật trữ tình “em”. Chỉ với đại từ “em” thôi, ta đã cảm thấy cái nhẹ nhàng của người con gái Hà Thành. Hà Nội trong cô gái thanh lịch hiện lên đẹp lạ:
Hà Nội trong em vẫn trong veo đến lạ
Viên ngọc trời vẫn lóng lánh bước chân
Dù rất hiếm tiếng sâm cầm thuở nọ
Trong thẳm sâu em vẫn rước thơ về
Dường như tất cả những nét thanh tú, nồng nàn của hoa sữa, hồ Gươm, ba sáu phố phường đều được nàng thơ gom vào chữ “trong veo” hết thảy. Câu thơ đầu là lời khẳng định cái vẹn tròn, long lanh những ấn tượng, kỉ niệm về Hà Nội của “em”. “Trong veo” thể hiện độ tinh túy, nhẹ nhàng mà vút cao, lắng đọng nhưng lan tỏa như “viên ngọc trời” vậy. Nhà thơ cũng thấy ngạc nhiên, cũng mắt tròn “đến lạ” vì cái “trong veo” kia. Những câu thơ nhẹ nhàng, nhưng đẹp cả về ngôn từ lẫn nội dung. Hai tính từ “trong veo”, “lấp lánh” ngay ở hai câu thơ đầu đã lột tả hết bản chất lung linh, thanh thoát của thành phố ba sáu phố phường ấy. Vì vậy, chẳng cần có“tiếng sâm cầm” thưở xưa kia vẫn khiến “em” nhớ, yêu và “rước thơ về”. Nhắc đến Hà Nội, ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay tới bầy sâm cầm chao liệng trên nền trời bởi nó đã bay vút vào bao nhiêu ca khúc, tứ thơ:
“Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi
Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời”
(Nhớmùa thu Hà Nội- Trịnh Công Sơn)
Nhưng chỉ với “em”thôi, thì chẳng cần đến “sâm cầm” vẫn có thể nghênh rước nàng thơ về. Thi sĩtrân quý lắm Hà Nội, nên khi làm thơ về mảnh đất này, nàng liên tưởng đến hànhđộng “rước” như đang nghênh đón một thứ quý giá, danh gia trở về. Nỗi lòng ấy cũng chẳng khác mấy với cái nhớ nhà của Huy Cận trong Tràng Giang “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Chỉ bốn câu thơ mở đầu nhẹ nhàng Đặng Hà Mi đã nói lên được tình yêu Hà Nội trong “thẳm sâu” trái tim mình. Nơi “thẳm sâu” nhất là nơi khó ai khuấy động, thay đổi nhất! Một Hà Nội thinh lặng nhưng vẫn cuộn xoáy những dư ba, lấp lánh, trong veo đến lạ thường!
Tiếp nối không gian một Hà Nội “trong veo”, nhà thơ lần lượt khắc họa những nét đẹp cụ thể vềcon người, về cảnh sắc.
Người Hà Nội nhữngđêm nằm nghiêng thở
Có tiếng nói lạ
Những tiếng cười lạ
Và biết bao điều ngọng nghịu
Lạ…
Người Hà Nội nhữngđêm quặn thắt
Thấy Tháp Rùa quăn
Hồ Tây cong
Dâm Đàm mù sương vạn cõi
Người Hà Nội được tác giả nhìn qua không gian đêm, khi mà sự hiện tồn của ánh sáng trở nên nhỏ nhất, cái nhạt nhòa, mơ ảo được đẩy lên cao nhất. Cái dịu dàng của những con người Thủ Đô nghe sao đẹp đến lạ. Đến dáng nằm cũng chênh chao, mê đắm “ đêm nằm nghiêng thở” thi vi lắm, nhẹ nhàng lắm nhưng cũng quẫy đạp vô cùng. Cái dáng nghiêng che nón lá của con gái Huế có y tựa như cái “nghiêng nằm thở” này không? Sự sống vẫn hiện tồn mãnh liệt qua cái dáng nghiêng nghiêng ấy, để rồi giữa đêm thanh mịch kia là vạn điều trăn trở, cháy khát:
Có tiếng nói lạ
Những tiếng cười lạ
Và biết bao điều ngọng nghịu
Lạ…
Tác giả phác họa cái khác, cái đặc biệt của đêm Hà Nội, của người Hà Nội qua từ “lạ”. Đó là nụcười, tiếng nói và cả những cái ngọng nghịu, ủ ấp không thốt nên lời giữa đêm!Đúng là đêm về kéo theo biết bao nhiêu “ngọng nghịu - lạ”. Đọc bấy nhiêu thôi, chỉ là những câu thơ điểm xuyết về sức sống, những cái “động” giữa đêm tĩnh của người Hà Nội cũng đủ làm lòng ta xao xuyến- cái xao xuyến rất tình. Dường nhưtác giả sợ rằng bấy nhiêu cái nói, cái cười, cái ngọng nghịu vẫn chưa đủ làm cho đêm Hà Nội có nét riêng nên Đặng Hà Mi phải cố “gài” vào mỗi dòng thơ tính từ “lạ” thì mới đủ sức cộng chứa hết thảy những quằn thức kia nổi. Chữ “lạ” ởcuối được nàng thơ ưu ái tách riêng ra thành một dòng biệt lập đã phần nào chứng tỏ điều đó, cộng thêm dấu ba chấm khiến cho cái “lạ” kia vẫn chưa dừng lại ở đó, vẫn tiếp diễn, kéo dài tràn ngập sang bất cứ đâu mà bút lực thi sĩ chạm tới…
Người Hà Nội nhữngđêm quặn thắt
Thấy Tháp Rùa quăn
Hồ Tây cong
Dâm Đàm mù sương vạn cõi
Nếu như ở những câu trên, Hà Nội hiện lên qua dáng “nghiêng thở” rất tình, nhẹ nhàng thì bốn câu thơ tiếp đan cài cái trở trăn, quặn thắt. Có lẽ nỗi nhớ sẽ chẳng tròn, ấn tượng sẽ chẳng đậm nét, câu thơ sẽ chòng chành nếu nhưchỉ có nhẹ nhàng, hiền hòa không thôi… Đặng Hà Mi đã gom tất cả cái thanh tú, cái chao nghiêng, cái khác lạ và cái “quặn thắt” vào đêm Hà Nội, thế nên đêm Thủ Đô mới đủ đầy đến thế. Những Tháp Rùa, Hồ Tây, Dâm Đàm được chiếu rọi bằng ánh mắt rất khác. Tháp Rùa vẫn là Tháp Rùa- niềm tự hào của đất nước được nàng thơ miêu tả bằng tính từ “quăn”, Hồ Tây liễu rũ nay lại “cong” đến lạ lùng, và cả Dâm Đàm nay sương mù bao vạn cõi… Ba nét riêng nhất của Hà Nội được nhà thơvẽ lại và gom chung thành ba câu thơ liền kề, tạo cho sức tưởng tượng của độc giả có dịp hiển hiện. Dường như cái “quăn- cong- mù sương vạn cõi” hiện lên trước mắt ta không chỉ là “Tháp Rùa- Hồ Tây- Dâm Đàm” nữa mà nó trở thành một nàng thiếu nữ đang mải mê trước tạo hóa đẹp xinh. Nét “cong” đặc tả được vẻ đep của người phụ nữ. Có cả nét đẹp cong nghiêng, và cả nét đẹp mơ hồ, lung linh, rất mộng trong bấy nhiêu câu thơ… Và không cần phải ngóng chờ lâu, thi sĩ đã nhẹ nhàng dẫn người đọc đến với hình ảnh người đàn bà “tóc rối” đang đắm mình vào sắc “hoa trời” khiến rối bời tất thảy sự vật xung quanh nàng.
Đóa hoa trời em ghim lên tóc rối
Rối phố
Rối phường
Rối cả chiêm bao
Giữa không gian mộng mơ ấy, “đóa hoa” trở nên mơ hồ, lạ lẫm. Tác giả không đưa ra một loài hoa có tên nào cụ thể, chúng ta có quyền thắc mắc tại sao không là hồng, là huệ, là lan… mà lại chung đến thế “hoa trời”. Hay chỉ có “hoa trời”mới đủ sức thẩm chứa cái rối bời tóc, rối bời phố, rối bời phường và chiêm bao rối bời ấy! Hành động “ghim” kia mạnh bạo quá, sao không là cài, gài, đan… Có lẽ cũng chỉ có “ghim” mới đủ sức bền chặt, vương mắc lên tóc rối của em gái Hà Nội trong thơ Đặng Hà Mi. Đọc bốn câu thơ ấy, lòng ta cũng rối bời theo giấc chiêm bao… Tất thảy đang đồng điệu, hùa theo cánh hoa trời mà dăng mắc khắp phố, khắp phường và neo đậu ngay giấc chiêm bao. Cơn khó ngủ ấy để rồi lại “đêm nằm nghiêng thở” lần nữa. Bốn dòng thơ là bốn lần từ “rối” lặp lại, đọc lên nghe sao lòng ta cũng “rối”, cũng loạn nhịp, chênh chao theo. Cái hay, cái dư ba làở đó?
Giấc chiêm bao chưa kịp bén chân thìđột nhiên Đặng Hà Mi quay quắt đòi phải có:
Bên dậu thưa
Có đàn kiến bậu đầy chân hăng mùi hắc ngải
Tiểu Mõ lồng ngồng hút cuống vú đêm
Ừ thì đêm mà, có ngoa ngoắt gì mà lại không có nổi một bờ dậu thưa, một đàn kiến, và cả Tiểu Mõ nữa… Ba câu thơ rất gợi, rất tình khiến người đọc phải suy ngẫm, trăn trở. Sự thật dễ dàng cho ta kiếm tìm cái cảnh “chết người” ấy lắm chứ? Nhưng ở đây, thi sĩ không muốn khoanh tròn trong “mùi hắc ngải” ấy, mà xa hơn… là chút tình đêm Hà Nội, đêm mê đắm của người, của vạn vật! Hình ảnh “hút cuống vú đêm” hiện lên không phải bằng thi từ nữa mà bằng ngồn ngộn nét thực, rất thực. Nó cũng gần với cách nói của chị ở những bài thơ khác:
Huyền mị đêm mắt tím
Thăm thẳm Cổ Ngư gió tràn chớp khóe môi đầy
…
Cho em được hé cánh sen chiều trong trắng
Để ngọc ngà non nuốt mãi Tràng An
Vẫn là chất nữ đậm sâu trong từng câu, từng chữ, từng hình ảnh thơ. Cái ngọt ngào của cơ thể người đàn bà đan cài vào nét duyên dáng của thiên nhiên, tạo hóa khiến cho thi tứ vút cao, mà lại gợi sức tưởng tượng lạ kì. Thế nên đọc Hà Nội trong em của chị chúng ta không những thấy được nét đẹp của Hồ Tây, Dâm Đàm… mà còn thấy sức uyển chuyển, mặn mòi, nồng nàn của những cơ thể sống giữa Hà Nội đẹp xinh ấy. Họ từng ngày từng giờ vẫn sống, vẫn “nghiêng thở”, vẫn quặn thắt”, vẫn“hút cuống vú đêm”… một cách nồng nhiệt, mê đắm nhất. Từ “cuống” thực tới mức chúng ta có thể phác họa lên trang giấy. Thế mới biết, chỉ có con người mới gom toàn vẻ đẹp của tạo hóa, chính họ bằng năng lượng sống đủ đầy mới gom nhặt tất thảy hoa mĩ trời đất vào mình. Con người và thiên nhiên Hà Nội trong mắt ngườiđàn bà làm thơ ấy là một, bền chặt… ngay cả những phút giây người nhất, tình nhất!
Và có lẽ, chưa đủ nếu nhắc đến người Hà Nội mà không đả động đến những trai thanh gái lịch- một phần tất yếu của mảnh đất kinh kì này:
Người "Hà Nội" tưng bừng bên giấy mới
Bút nghiên nào
Viết nổi một chữThanh
Bột mực nào Lịch lãm múa nét hoa
Trên thân Rồng ngàn năm chầu chín Phượng?
Nétđẹp ngàn năm văn hiến gắn với nghiên mực, thầy đồ, xin chữ… vẫn còn đó, chưa hềmai một. Để nàng thơ có dịp tung bút. Đặng Hà Mi miêu tả đã khéo, thì nay khen lại cực kì khéo. Cái Thanh Lịch kia dẫu ngàn vạn bút nghiên, giấy gió vẫn không thể nào viết “nổi” cho hết, cho kì sạch sành sanh. Thế mới thấu tận nét Thanh Lịch của trai gái Hà Thành lớn lao, to tát đến nhường nào. Chỉ có thể mơn trớn bên ngoài thế thôi, còn muốn viết “nổi” cho kì hết thì khó lắm, nhiều lắm, mênh mông lắm. Câu thơ cuối khổ bao gọn tất thảy nền văn hiến lâu đời ấy “ Trên thân Rồng ngàn năm chầu chin Phượng?” hào hung, kĩ vĩ.
Sen tím bầm trời
Cứ kiêu mùa bạch tạng
Có cánh nào đích thực gọi là Thơ?
Trời Hà Nội oằn những giấc mơ
Im lìm che miệng cười trong góc khuất
Hình ảnh đóa Sen giữa Hà Nội đẹp hơn, thơ hơn trong Hà Nội trong em. Sắc hồng của loài hoa thân thuộc ấy đậm tới độtác giả nâng tới mực “tím bầm trời”. Dường như ở đây, cái gì cũng khác, cũng riêng, hoa Sen cũng tím chẳng thấy hồng như thường. Nét “kiêu” sa của đóa hoa trước màu “bạch tạng” của mùa cũng chính là sức quyến rũ của Hà Thành. Gi ữa mùa nhạt màu ấy, sen kiêu sa khoe sắc, nên sắc hoa mới tím đến nhường ấy! Câu hỏi bỏ lửng quay quắt tìm câu trả lời, mà sao lặng thinh không gian quá. Để rồi“im lìm che miệng cười trong góc khuất”… Nét duyên của “ai đó” làm ta nhớ hoài khôn nguôi. Kín đáo, nhẹ nhàng và e lệ, câu thơ cuối toát lên vẻ đẹp rất riêng của phố Hà Nội, gái Hà Nội…Ba sáu phố phường nối nhau tít tắp, chỉ có những mái nhà, góc phố uốn quanh là tồn tại, hiện hữu mãi với thời gian, không gian. Nó dẫn bước bao nhiêu lượt người đi, người đứng ngóng, người ở lại… để sau đó neo thành kỉ niệm:
Ừ…
Chân bước đi
Nổi chìm con đường 37
Mùa heo may cắn nát cánh lộc vừng
Mùa heo may cuốn lên khói hương chẳng nhớ gì phía Phái
Mùa heo may báo hiệu thu sang, với lá vàng “lót chỗ em nằm” và nó cũng nhẫn tâm “cắn nát cánh lộc vừng”, rồi cuộn khói để phố Bùi Xuân Phái ngồn ngộn, ẩn chìm trong khói hương. Mơ màng và nên thơlắm mùa thu Hà Nội. Phố Phái con phố thứ 37 ấy vẫn nằm trên những khung vải của họa sĩ Bùi Xuân Phái nó không dựng trên mặt đất mà dựng từ hồn của 36 phố phường. Giờ đây nó lại được Đặng Hà Mi đưa vào thơ với vẻ bang lãng, ẩn hiện, mơ màng khó tả
Lên đồng 36 hồn quay quắt
Xin một lần gieo quẻ
Gọi về
Nhập lại
Phố Cổ
Nâu…
Những câu thơ cuối được tác giả bẻ ra, ngắt ra thành những câu thơ ngắn hai từ, một từ… Thể hiện niềm mong mỏi lưu giữnhững nét di sản rất xưa, rất Hà Nội. Phố cổ hai năm, ba mươi năm có còn nữa hay không? Tiếng gọi “nhập lại” “phố cổ- nâu” ấy da diết khôn nguôi. Đó cũng là tiếng lòng của biết bao người con Hà Nội- sợ một ngày ba sáu phố phường chỉ còn lại trong tranh- “chẳng nhớ gì phía Phái” là thế!
Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do, không hạn định số câu trong mười khổ, không đồng đều số chữ ở mỗi câu khiến cho Hà Nội trong em cứ tự nhiên dội vào, chảy vào và xoáy vào lòng người đọc. Những dấu ba chấm, chấm hỏi tạo nên sức lay động tới độc giả. Bắt chúng ta phải nghĩsuy, ngẫm bàn mãi, bắt đầu óc, tâm hồn trở trăn theo từng dấu ấn về Hà Nội của nàng thơ Đặng Hà Mi. Bài thơ là tiếng lòng của một người con xứ kinh kì đang khắc khoải trước nét đẹp rất riêng của quê mẹ. Muốn lưu giữ, bảo tồn mãi mãi. Khổ thơ cuối là niềm mong mỏi rất nhân văn của nhà thơ trước sức bào mòn của thời gian, lòng người với những giá trị vật chất, tinh thần của phố cổ Hà Nội.
Đọc hết bài thơ, tâm hồn ta nhưu lắng lại để bắt đầu hoài niệm, nhớ nhung … mảnhđất Hà Nội đẹp mê hồn, thanh lịch mê hồn, da diết đến mê hồn. Thầm cảm ơn tác giả đã “gieo quẻ gọi Phố Nâu” về bên tan gay giữa nhộn nhịp xe cộ, bon chen vật chất, xô lấn cuộc đời. Đặng Hà Mi đã lưu giữ những nét đẹp tinh khôi, văn hiến nhất của Hà Nội vào “thẳm sâu” trong “em”, trong ta, trong tất cả mọi người!
Blogger "nồng nàn phố"
Hà nội được/bị(?) vẽ râu:
Người "Hà Nội" tưng bừng bên giấy mới
Bút nghiên nào
Viết nổi một chữ Thanh
Bột mực nào lịch lãm m..
Hà nội được/bị(?) vẽ râu:
Người "Hà Nội" tưng bừng bên giấy mới
Bút nghiên nào
Viết nổi một chữ Thanh
Bột mực nào lịch lãm múa nét hoa
Trên thân Rồng ngàn năm chầu chín Phượng?
Và đây là những âm thanh bất lực văng ra từ trong làng thơ:
Sen tím bầm trời
Cứ kiêu mùa bạch tạng
Có cánh nào đích thực gọi là Thơ?
Để rồi nhìn giời mà cười.. một mình vậy:
Trời Hà Nội oằn những giấc mơ
Im lìm che miệng cười trong góc khuất
Thôi thì tấp tểnh và trống hoác:
Ừ…
Chân bước đi
Nổi chìm con đường 37
Mùa heo may cắn nát cánh lộc vừng
Mùa heo may cuốn lên khói hương chẳng nhớ gì phía Phái
Và "Lên đồng" sẽ là Quốc giáo:
Lên đồng 36 hồn quay quắt
Xin một lần gieo quẻ
Gọi về
Mong được một nén hầu:
Nhập lại
Phố Cổ
Nâu
Đương nhiên đây chỉ là cảm nhận của riêng nhà tui, không có mục đích để nói nhăng rằng Blogger "Nồng Nàn Phố" bốc thơm linh tinh, và những tiếng cổ vũ là những tiếng vỗ tay từ máy ghi âm.
Rõ ràng rằng dù nhìn ở góc cạnh nào thì bài viết này của Nồng Nàn Phố thổi được một hồn cốt mới [dù có thể là không đúng như tui dẫn chứng] cho bài thơ, có tâm và huyết cho Hà Nội, công phu.
Đọc bài này xong nhà tui vẫn không nghĩ là HÀ NỘI TRONG EM "nồng nàn" như blogger Nồng Nàn Phố bình tả. Cái từ "lạ" (Hà Nội... trong veo đế..
Đọc bài này xong nhà tui vẫn không nghĩ là HÀ NỘI TRONG EM "nồng nàn" như blogger Nồng Nàn Phố bình tả. Cái từ "lạ" (Hà Nội... trong veo đến lạ của ĐHMy) -theo tui nghĩ- ở đây là biểu cảm của một sự chung thủy của một tâm hồn có thể xác là Hà Nội -một cách lạ lùng- của ĐHMy, mặc dù đã và đang có rất nhiều cái "lạ" trong Hà Nội [của em]:
Chứng tích:
...
Dù rất hiếm tiếng sâm cầm thuở nọ
Và đây là những thay hình đổi giọng, những cái chợt đến và chợt... ở lại với Hà Nội:
Người Hà Nội những đêm nằm nghiêng thở
Có tiếng nói lạ
Những tiếng cười lạ
Và biết bao điều ngọng nghịu
Lạ…
Và đây là những đớn đau kèm theo:
Người Hà Nội những đêm quặn thắt
Thấy Tháp Rùa quăn
Mặt hồ gươm méo [minh hoạ của tui]
Hồ Tây cong
Dâm Đàm mù sương vạn cõi
Để rồi tác giả bị rối loạn tâm linh:
Đóa hoa trời em ghim lên tóc rối
Rối phố
Rối phường
Rối cả chiêm bao
Và trở về với thực tại:
Bên dậu thưa
Có đàn kiến bậu đầy chân hăng mùi hắc ngải
Tiểu Mõ lồng ngồng hút cuống vú đêm
(Tiếp phần 2)
mẻ ít người đặt chân đến. Ngỡ bắt được con bướm thơ lượn rồi mà lại chưa, lại..
mẻ ít người đặt chân đến. Ngỡ bắt được con bướm thơ lượn rồi mà lại chưa, lại
xuất hiện cả đàn bướm mới đẹp như thảm hoa bay - vẫy gọi , khiêu khích tinh nghịch.
Hồn thơ, cốt cách đọng lại như hương hoa của người con gái đẹp.
Tiên hồ có đũa thần gì tuyệt vậy?!
Yêu thêm HN, người HN và thơ Việt! Cám ơn cô tiên.
Danke. Sehr angenehm.
Chỉ mong tác giả, cũng như mọi độc giả khác, xem những dòng chữ ấy chỉ đơn thuần là những cảm nhận cá nhân, trong một phạm trù văn chương thuần khiết, không có ý phản biện để làm buồn lòng bất cứ một độc giả nào - đặc biệt là với những "trăn trở" của tác giả Đặng Hà My.
Trong tinh thần "đọc giữa hai dòng chữ" của Thầy Dizikimi, và cũng nhất quán với một vài cảm xúc của NồngNànPhố, CTRP trân trọng nỗi trăn trở của tác giả:
"Lên đồng 36 hồn quay quắt Xin một lần gieo quẻ Gọi về Nhập lại Phố Cổ Nâu."
Cầu mong Hà Nội sớm phục hồi những "mô bào sắc tố" cần thiết - để trả lại màu xanh đúng nghĩa của bầu trời của một thủ đô "ngàn năm văn vật."
“ Ba sáu lượt em tìm về xưa ấy
Ủ men trời thắp vài nén hương côi
Trong bóng mắt năm cửa lòng run rẩy
Có vầng trăng lặng lẽ.. vỡ ven Hồ.” ( § HM- HÀ NỘI TRONG EM (1)
Ba sáu lượt...em ngụ 36 phố phường?
Năm cửa lòng...ngụ 5 cửa ô Hà Nội?
Đọc giữa hai dòng càng thấy em bổi hổi...
Càng thấy em, thấy Hà Nội ở trong em!
DIZIKIMI
Xuân Phái nó
kh..
Xuân Phái nó
không dựng trên mặt đất mà dựng từ hồn của 36 phố phường. Giờ đây nó lại
được Đặng Hà Mi đưa vào thơ với vẻ bang lãng, ẩn hiện, mơ màng khó tả Lên đồng 36 hồn quay quắt Xin một lần gieo quẻ Gọi về Nhập lại Phố Cổ Nâu… Những
câu thơ cuối được tác giả bẻ ra, ngắt ra thành những câu thơ ngắn hai
từ, một từ… Thể hiện niềm mong mỏi lưu giữnhững nét di sản rất xưa, rất
Hà Nội. Phố cổ hai năm, ba mươi năm có còn nữa hay không? Tiếng gọi
“nhập lại” “phố cổ- nâu” ấy da diết khôn nguôi. Đó cũng là tiếng lòng
của biết bao người con Hà Nội- sợ một ngày ba sáu phố phường chỉ còn lại
trong tranh- “chẳng nhớ gì phía Phái” là thế! Bài
thơ được viết bằng thể thơ tự do, không hạn định số câu trong mười khổ,
không đồng đều số chữ ở mỗi câu khiến cho Hà Nội trong em cứ tự nhiên
dội vào, chảy vào và xoáy vào lòng người đọc. Những dấu ba chấm, chấm
hỏi tạo nên sức lay động tới độc giả. Bắt chúng ta phải nghĩsuy, ngẫm
bàn mãi, bắt đầu óc, tâm hồn trở trăn theo từng dấu ấn về Hà Nội của
nàng thơ Đặng Hà Mi. Bài thơ là tiếng lòng của một người con xứ kinh kì
đang khắc khoải trước nét đẹp rất riêng của quê mẹ. Muốn lưu giữ, bảo
tồn mãi mãi. Khổ thơ cuối là niềm mong mỏi rất nhân văn của nhà thơ
trước sức bào mòn của thời gian, lòng người với những giá trị vật chất,
tinh thần của phố cổ Hà Nội. Xin được cảm ơn Đặng Hà My và Nồng Nàn Phố.